Đột quỵ thiếu máu cục bộ động mạch não ở trẻ em: Chẩn đoán và phòng tránh
Đột quỵ thiếu máu cục bộ động mạch não ở trẻ em hiện là một bệnh lý vô cùng nguy hiểm và ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức khỏe nếu không được phát hiện và can thiệp kịp thời. Do đó, việc nhận diện dấu hiệu và đưa ra hướng điều trị trong trường hợp này là vô cùng cần thiết.
Các nguyên nhân chính gây đột quỵ thiếu máu cục bộ động mạch não ở trẻ em
Do trẻ mắc bệnh tim bẩm sinh
Đột quỵ thiếu máu cục bộ động mạch não có thể do một cục máu đông gây tắc động mạch, ví dụ như từ tim hoặc động mạch lớn, hoặc từ huyết khối tại chỗ.
Các bệnh tim bẩm sinh chiếm khoảng 30% các ca bệnh đột quỵ thiếu máu cục bộ động mạch não ở trẻ em. Những trẻ cần phẫu thuật tim có nguy cơ đột quỵ cao nhất, không chỉ trong thời kỳ quanh phẫu thuật, mà còn trong nhiều năm sau phẫu thuật và có thể xảy ra ngay cả khi trẻ được điều trị bằng thuốc chống đông.
Bệnh động mạch não
Có tới một nửa trong tất cả các đột quỵ thiếu máu cục bộ động mạch não ở trẻ em là liên quan đến bệnh động mạch não.
Đột quỵ do bệnh động mạch não thường biểu hiện khởi phát bán cấp, với một tiền sử có các cơn thiếu máu não cục bộ thoáng qua.
Các yếu tố nguy cơ khác gây đột quỵ thiếu máu cục bộ động mạch não ở trẻ em
Các yếu tố nguy cơ khác của đột quỵ thiếu máu cục bộ động mạch não ở trẻ em bao gồm: Bệnh lý tăng đông
- Tăng homocystein máu
- Các kháng thể kháng cardiolipin
- Tăng lipoprotein (a)
- Ung thư máu
- Thiếu protein C
- Thiếu protein S
- Yếu tố V Leiden
- Yếu tố II (đột biến prothrombin G20210A)
Các bệnh lý về máu
- Bệnh hồng cầu hình liềm
- Thiếu máu thiếu sắt
- Ung thư

Nhiễm trùng
- Viêm màng não do vi khuẩn
- Varicella nguyên phát và tái hoạt động
- Viêm màng não do nấm
- Viêm màng não do lao
Các thuốc
- Asparaginase
- Estrogen ngoại sinh
- Các chất cấm (ví dụ: cocaine, methamphetamine)
Viêm/tự miễn
- Lupus ban đỏ hệ thống
- Viêm khớp dạng thấp
- Viêm mạch hệ thống.
Biểu hiện lâm sàng đột quỵ thiếu máu cục bộ động mạch não ở trẻ em
Phần lớn trẻ em đột quỵ thiếu máu cục bộ động mạch não cấp tính sẽ có các thiếu sót thần kinh khu trú, mặc dù nhận ra những thiếu sót này có thể khó ở trẻ rất nhỏ hoặc trẻ yếu. Chẩn đoán đột quỵ thiếu máu cục bộ động mạch não thường bị chậm vì ít gặp đột quỵ ở trẻ em so với người lớn và thường gặp các bệnh lý giống đột quỵ như: cơn động kinh, migraine, viêm não, mất myelin, và các rối loạn thần kinh chức năng.
Chẩn đoán sớm đột quỵ thiếu máu cục bộ động mạch não ở trẻ em có thể dựa vào việc sử dụng các quy trình chẩn đoán tương tự như ở người lớn, mặc dù đánh giá thần kinh đầy đủ sẽ là cần thiết để xác định đột quỵ và loại trừ các bệnh lý giống đột quỵ. Các bệnh lý giống đột quỵ thường gặp nhất ở trẻ em là cơn động kinh, migraine, bệnh tâm căn, tổn thương khối choán chỗ, nhiễm trùng, nhiễm độc methotrexate, hội chứng bệnh não phía sau có thể hồi phục (PRES) và đột quỵ chuyển hóa.
Nguyên nhân hay gặp nhất của các thiếu sót thần kinh khu trú khởi phát đột ngột ở người lớn là đột quỵ cấp, và điều trị đột quỵ thiếu máu cục bộ động mạch não ở người lớn có thể được triển khai dựa trên hình ảnh CT sọ não đã loại trừ chảy máu trong sọ và đánh giá các dấu hiệu sớm của đột quỵ. Trái lại, vì tỷ lệ cao của các trình trạng bệnh lý giống đột quỵ ở trẻ em, hình ảnh thần kinh là cần thiết, không chỉ để loại trừ đột quỵ chảy máu não (chiếm một nửa tất cả các đột quỵ ở trẻ em) mà còn để xác định có đột quỵ thiếu máu cục bộ động mạch não hay không và để loại trừ các bệnh lý giống đột quỵ cấp tính trước khi quyết định điều trị.
Bệnh động mạch não là một yếu tố nguy cơ thường gặp trong đột quỵ thiếu máu cục bộ động mạch não ở trẻ em. Đột quỵ liên quan đến bệnh động mạch não thường có các cơn thiếu máu não cục bộ thoáng qua trước đó, và các thiếu sót thần kinh thoáng qua là một chỉ định chụp động mạch não cấp vì điều trị có thể dự phòng được các cơn thiếu máu não cục bộ thoáng qua tiếp theo hoặc tổn thương thiếu máu não cục bộ vĩnh viễn.
Chẩn đoán đột quỵ thiếu máu cục bộ động mạch não ở trẻ em
Hiện nay, Chụp cộng hưởng từ – MRI/MRA được coi là công cụ “vàng” tầm soát đột quỵ não. MRI được sử dụng để kiểm tra tình trạng hầu hết các cơ quan trong cơ thể, đặc biệt có giá trị trong chụp ảnh chi tiết não hoặc thần kinh cột sống. Do có độ phân giải và tương phản tốt nên hình ảnh MRI cho phép phát hiện ra các điểm bất thường ẩn sau các lớp xương mà các phương pháp tạo ảnh khác khó có thể nhận ra. Đặc biệt, quá trình chụp bằng MRI không gây tác dụng phụ như trong chụp X-quang hay cắt lớp vi tính (CT).
Vì tỷ lệ mới mắc cao của các tình trạng giả đột quỵ ở trẻ em, chẩn đoán cần được xác định bằng hình ảnh thần kinh. Chụp hình ảnh cấp cứu được chỉ định, vì có thể cần phải can thiệp cấp cứu, bao gồm nhồi máu ác tính và cân nhắc các chiến lược tái tưới máu cấp cứu và với các tình trạng đi kèm gây nguy cơ cao đột quỵ tái phát hoặc tiến triển mà không điều trị. Trong đó có lóc tách động mạch vùng đầu cổ và huyết khối từ tim.
Chụp MRI và các phương pháp xác định bằng hình ảnh giúp bác sĩ chẩn đoán đột quỵ não ở trẻ em
Khi có thể, MRI là thăm dò tối ưu cho chẩn đoán đột quỵ thiếu máu cục bộ động mạch não cấp tính ở trẻ em. Xung khuếch tán (DWI), có độ nhạy cao với thiếu máu cục bộ, có thể được chụp trước để định hướng chụp các xung tiếp theo. Một quy trình chụp MRI nhanh có thể thực hiện trong khoảng 20 phút và có ích ở trẻ em cần an thần nếu chụp lâu hoặc nếu nguồn lực hạn chế. Tốt nhất là quy trình này cần bao gồm xung T2 cắt ngang hoặc FLAIR cắt ngang, xung SWI hoặc GRE để phát hiện chảy máu, xung DWI/ADC phát hiện thiếu máu cục bộ, và chụp cộng hưởng từ mạch máu (MRA) xung TOF đầu và cổ để đánh giá bệnh động mạch não. Ngoài ra, hình ảnh thành mạch đang được sử dụng để đánh giá bệnh lý thành động mạch, ví dụ như viêm. Ngay cả khi DWI không thấy có thiếu máu cục bộ, MRA vẫn được chỉ định ở trẻ em có các thiếu sót thoáng qua nghi ngờ cơn thiếu máu não cục bộ thoáng qua, bởi có thể có nguyên nhân nền là bệnh động mạch não.
CT sọ não có thể loại trừ chảy máu trong sọ, nhưng không nhạy với đột quỵ thiếu máu não cục bộ cấp giai đoạn sớm. Mặc dù chụp mạch CT đầu và cổ có thể phát hiện được các bất thường động mạch, bao gồm cả hẹp và tắc, nó cần chiếu xạ nhiều và thuốc cản quang thường không cung cấp thêm thông tin so với MRA. CT sọ não có thể chỉ định ở trẻ không thể chụp MRI (ví dụ: trẻ mang máy tạo nhịp tim).
Chụp mạch não qua catheter là phương pháp nhạy nhất để chụp hình khẩu kính mạch máu trong bệnh động mạch não, bao gồm hẹp và tắc. Nó là phương pháp xâm lấn và cần chiếu xạ nhiều cũng như an thần, tuy nhiên, các biến chứng là hiếm gặp với những người chụp có kinh nghiệm.
Biện pháp phòng tránh
Thăm khám kịp thời ngay khi trẻ có biểu hiện bất thường như đau đầu, chóng mặt…
Bổ sung đầy đủ dưỡng chất, không thức khuya, không cho trẻ dùng chất kích thích, hoạt động thể lực vừa phải.
Xin lưu ý: Thông tin trong bài viết chỉ mang tính chất tham khảo. Độc giả vui lòng liên hệ với Bác sĩ, Dược sĩ hoặc chuyên viên y tế để được tư vấn cụ thể và chính xác nhất.
