Zeffix (Hộp 2 vỉ x 14 viên)
P01600
Thương hiệu: GSK ETCDanh mục
Nhà sản xuất
Bảo quản
Đặt thuốc theo toa
Tải lên đơn thuốc của bạn để nhận sự tư vấn và hỗ trợ từ các dược sĩ của chúng tôi.

Mô tả sản phẩm
Thành phần
- Hoạt chất: Lamivudin 100mg
- Tá dược: Celulose vi tinh thể, natri starch glycolat tuýp A, magnesi stearat, Butterscotch YS-1R-17307-A (hypromelose, titan dioxyd, macrogol 400, polysorbat 80, oxyd sắt tổng hợp màu vàng và đỏ).
Chỉ định (Thuốc dùng cho bệnh gì?)
Zeffix được chỉ định điều trị những bệnh nhân bị viêm gan B mạn tính và có bằng chứng nhân lên của virus viêm gan B (HBV).
Chống chỉ định (Khi nào không nên dùng thuốc này?)
Chống chỉ định dùng Zeffix viên nén cho bệnh nhân được biết quá mẫn với Zeffix hoặc với bất kỳ thành phần nào của thuốc, bệnh nhân bị bệnh thận nặng.
Liều dùng và cách dùng
Có thể uống Zeffix trong hoặc ngoài bữa ăn.
Nên giám sát sự tuân thủ của bệnh nhân khi điều trị bằng Zeffix.
Thời gian điều trị
Khoảng thời gian điều trị tối ưu chưa được biết.
- Bệnh nhân viêm gan B mạn tính có HBeAg dương tính (CHB) không bị xơ gan, nên điều trị ít nhất từ 6 tới 12 tháng sau khi có sự chuyển đổi huyết thanh HbeAg (mất HBeAg và HBV DNA cùng với việc phát hiện HBeAb) được khẳng định, để giới hạn nguy cơ tái phát của virus hoặc tới khi có sự chuyển đổi huyết thanh HBsAg hoặc điều trị mất hiệu quả (xem phần Cảnh báo và Thận trọng). Mức huyết thanh ALT và HBV DNA nên được theo dõi thường xuyên sau khi ngừng điều trị để phát hiện bất kỳ sự tái phát virus muộn nào.
- Bệnh nhân viêm gan B mạn tính có HBeAg âm tính (đột biến tiền trung tâm) không bị xơ gan, nên điều trị ít nhất cho tới khi có sự chuyển đổi huyết thanh hoặc có bằng chứng điều trị mất hiệu quả. Với điều trị kéo dài, việc thường xuyên đánh giá lại được khuyến cáo để khẳng định rằng việc tiếp tục phương pháp điều trị đã chọn vẫn thích hợp với bệnh nhân.
- Đối với bệnh nhân bệnh gan mất bù hoặc xơ gan và bệnh nhân cấy ghép gan, không khuyến cáo ngừng điều trị.
Zeffix nên được sử dụng theo các khuyến cáo chính thức.
Viên nén Zeffix 100mg không phù hợp để sử dụng cho trẻ em và những bệnh nhân không thích hợp dùng dạng viên nén.
Các đối tượng dân số
Người lớn và thanh thiếu niên từ 12 tuổi trở lên
Liều khuyến cáo của Zeffix là 100mg x 1 lần/ngày.
Bệnh nhân suy thận
Nồng độ lamivudin trong huyết thanh (AUC) tăng lên ở những bệnh nhân suy thận từ vừa đến nặng do giảm thanh thải ở thận. Do đó nên giảm liều ở những bệnh nhân có độ thanh thải creatinine từ 30ml/phút đến 50ml/phút. Viên nén Zeffix 100mg không phù hợp để sử dụng cho những bệnh nhân cần sự chỉnh liều.
Bệnh nhân suy gan
- Dữ liệu thu được ở bệnh nhân suy gan, bao gồm những bệnh nhân có bệnh gan giai đoạn cuối đang chờ ghép gan, cho thấy dược động học của Zeffix không bị ảnh hưởng đáng kể bởi rối loạn chức năng gan.
- Dựa trên những dữ liệu này, không cần điều chỉnh liều ở bệnh nhân suy gan trừ khi kèm theo suy thận.
Tác dụng phụ
Số liệu thử nghiệm lâm sàng
Zeffix được dung nạp tốt trong các nghiên cứu lâm sàng trên những bệnh nhân viêm gan B mạn tính. Tỷ lệ tác dụng không mong muốn và các bất thường về xét nghiệm (ngoại trừ tăng ALT và CPK, xem dưới đây) là tương tự giữa những bệnh nhân dùng giả dược và dùng Zeffix (xem Bảng 1). Các tác dụng không mong muốn phổ biến nhất được báo cáo là khó ở và mệt mỏi, nhiễm khuẩn đường hô hấp, đau đầu, cảm giác khó chịu và đau bụng, buồn nôn, nôn và tiêu chảy.
Bảng 1
Tác dụng không mong muốn
Số liệu thử nghiệm lâm sàng
Số liệu tích hợp giai đoạn III
Giả dược (n=200) Zeffix 100mg (n=416)
Khó ở và mệt mỏi 28% 26%
Nhiễm khuẩn đường hô hấp 17% 19%
Đau đầu 21% 22%
Khó chịu và đau bụng 17% 15%
Buồn nôn và nôn 17% 16%
Tiêu chảy 12% 14%
Tăng ALT trong quá trình điều trị* 13% 13%
Tăng ALT sau khi điều trị** 8% 19%
Tăng CPK* 5% 9%
* % bệnh nhân có sự bất thường về xét nghiệm mức III hoặc IV trong quá trình điều trị.
** % bệnh nhân có tăng ALT mức III hoặc IV sau điều trị.
- Tác dụng không mong muốn được liệt kê dưới đây theo hệ cơ quan và tần suất. Phân loại tần suất chỉ áp dụng đối với những tác dụng không mong muốn được xem là ít nhất cũng có thể có nguyên nhân liên quan đến Zeffix. Tần suất được định nghĩa như sau: rất phổ biến (≥ 1/10), phổ biến (≥ 1/100 đến < 1/10), không phổ biến (≥ 1/1000 đến < 1/100), hiếm (≥ 1/10000 đến < 1/1000) và rất hiếm (< 1/10000).
- Phân loại tần suất tác dụng không mong muốn dưới đây chỉ mang tính ước lượng: trong hầu hết các trường hợp, không có sẵn số liệu thích hợp để tính tỉ lệ mắc. Phân loại tần suất tác dụng không mong muốn rất phổ biến và phổ biến được xác định từ số liệu thử nghiệm lâm sàng và không tính đến tỉ lệ mắc ban đầu trong các nhóm dùng giả dược. Các tác dụng không mong muốn được xác định qua khảo sát hậu mãi được phân loại là hiếm hoặc rất hiếm.
Rối loạn gan mật
- Rất phổ biến: Tăng ALT.
- Sự tăng ALT sau điều trị phổ biến hơn ở những bệnh nhân dùng Zeffix so với những bệnh nhân dùng giả dược. Tuy nhiên, trong những thử nghiệm có đối chứng ở những bệnh nhân mắc bệnh gan còn bù, không thấy sự khác biệt đáng kể về hiện tượng tăng ALT nghiêm trọng trên lâm sàng sau điều trị, đi kèm với tăng bilirubin và/hoặc các dấu hiệu suy gan giữa những bệnh nhân được điều trị bằng Zeffix và bệnh nhân dùng giả dược. Mối quan hệ của các biến cố viêm gan tái phát này với việc điều trị bằng Zeffix hoặc với bệnh đã có trước đó là không chắc chắn (xem Cảnh báo và Thận trọng).
Rối loạn da và mô dưới da
Phổ biến: Phát ban.
Rối loạn cơ xương và mô liên kết
Phổ biến: Tăng CPK.
Số liệu hậu mãi
Ngoài các tác dụng không mong muốn được báo cáo từ các thử nghiệm lâm sàng, các biến cố sau đây cũng được xác định trong quá trình sử dụng Zeffix sau khi được phê duyệt.
Rối loạn máu và hệ bạch huyết
Rất hiếm: Giảm tiểu cầu.
Rối loạn cơ xương và mô liên kết
- Phổ biến: Rối loạn cơ, bao gồm đau cơ và chuột rút.
- Rất hiếm: Hủy cơ vân.
- Ở những bệnh nhân nhiễm HIV, đã có báo cáo về những trường hợp viêm tụy và bệnh thần kinh ngoại biên (hoặc dị cảm) mặc dù chưa thiết lập được rõ mối liên quan với việc điều trị bằng lamivudin (Epivir). Ở các bệnh nhân viêm gan B mạn tính không thấy có sự khác biệt về tỷ lệ xuất hiện những biến cố này giữa những bệnh nhân dùng giả dược và những bệnh nhân dùng Zeffix.
- Các trường hợp nhiễm toan lactic, thường đi kèm với chứng gan to và gan nhiễm mỡ mức độ nặng, đã được báo cáo khi sử dụng kết hợp với các chất tương tự nucleosit ở những bệnh nhân HIV. Đôi khi có báo cáo về những tác dụng không mong muốn này ở bệnh nhân viêm gan B kèm theo bệnh gan mất bù, tuy nhiên không có bằng chứng là những biến cố này có liên quan tới việc điều trị bằng Zeffix.
- Thông báo cho bác sỹ những tác dụng không mong muốn gặp phải khi dùng thuốc.
Thận trọng (Những lưu ý khi dùng thuốc)
Tình trạng bùng phát khi điều trị
- Sự bùng phát ngẫu nhiên của viêm gan B mạn tính tương đối phổ biến và đặc trưng bởi sự tăng tạm thời ALT huyết thanh. Sau khi bắt đầu điều trị bằng thuốc kháng vi-rút, ALT huyết thanh có thể tăng ở một số bệnh nhân khi nồng độ DNA HBV huyết thanh giảm, ở những bệnh nhân bệnh gan còn bù, sự tăng ALT huyết thanh nói chung thường không kèm theo sự tăng nồng độ bilirubin huyết thanh hoặc các dấu hiệu của gan mất bù.
- Phân nhóm virus HBV giảm độ nhạy cảm với lamivudine (HBV đột biến YMDD) đã được xác định bằng liệu pháp mở rộng, ở một số bệnh nhân, sự phát triển của HBV đột biến YMDD có thể dẫn đến bùng phát viêm gan, chủ yếu được phát hiện bởi sự tăng ALT huyết thanh và tái xuất hiện HBV DNA (xem phần Cảnh báo và Thận trọng), ở những bệnh nhân có HBV đột biến YMDD, nên cân nhắc chuyển sang hoặc bổ sung một tác nhân thay thế mà không đề kháng chéo với lamivudine dựa trên các hướng dẫn điều trị (xem phần Đặc tính dược động học).
Sự bùng phát sau khi ngưng điều trị
Sự bùng phát cấp tính của viêm gan đã được quan sát thấy ở những bệnh nhân ngừng điều trị viêm gan B và thường được phát hiện bởi sự tăng ALT huyết thanh và tái xuất hiện HBV DNA. Trong các thử nghiệm lâm sàng pha III có nhóm chứng với theo dõi mà không có điều trị tích cực, tăng ALT sau điều trị (hơn 3 lần so với đường cơ sở) cao hơn ở bệnh nhân điều trị bằng lamivudine (21%) so với những người nhận giả dược (8%). Tuy nhiên, tỷ lệ các bệnh nhân tăng ALT sau điều trị liên quan với tăng bilirubin là thấp và tương tự ở cả hai nhánh điều trị (xem bảng trong phần Đặc tính dược động học). Đối với bệnh nhân điều trị bằng lamivudine, phần lớn tăng ALT sau điều trị xảy ra trong khoảng từ 8 đến 12 tuần sau điều trị. Hầu hết các tác dụng ngoại ý tự giới hạn, tuy nhiên một số trường hợp tử vong đã được quan sát thấy. Nếu ngừng sử dụng Zeffix, bệnh nhân cần được theo dõi định kỳ cả về mặt lâm sàng và bằng cách đánh giá xét nghiệm chức năng gan (ALT và các mức bilirubin), trong ít nhất 4 tháng, và sau đó theo chỉ định về mặt lâm sàng.
Sự bùng phát đối với các bệnh nhân xơ gan mất bù
- Những người nhận cấy ghép và các bệnh nhân xơ gan mất bù có nhiều nguy cơ bị nhân đôi vi-rút hoạt động. Do chức năng gan biên ở những bệnh nhân này, sự tái phát viêm gan khi ngừng dùng thuốc lamivudine hoặc mất hiệu quả trong quá trình điều trị có thể gây ra tình trạng mất bù nặng và thậm chí gây tử vong. Những bệnh nhân nên được kiểm soát các thông số lâm sàng, vi-rút học và huyết thanh học liên quan đến viêm gan B, chức năng gan và thận và đáp ứng kháng virus trong khi điều trị (ít nhất mỗi tháng) và, nếu ngừng điều trị vì bất cứ lý do nào, ít nhất 6 tháng sau điều trị. Các thông số trong phòng thí nghiệm phải được theo dõi bao gồm (tối thiểu) ALT huyết thanh, bilirubin, albumin, ni-tơ urê máu, creatinine và tình trạng vi-rút: HBV kháng nguyên/ kháng thể và nồng độ HBV DNA huyết thanh khi có thể. Bệnh nhân có dấu hiệu suy gan trong hoặc sau khi điều trị nên được theo dõi thường xuyên hơn nếu thích hợp.
- Đối với bệnh nhân có bằng chứng bị viêm gan tái phát sau điều trị, không có đủ dữ liệu về lợi ích của việc bắt đầu điều trị lại lamivudine.
Rối loạn chức năng ty thể
- Các chất tương tự nucleoside và nucleotide đã được chứng minh trong in vitro và in vivo gây ra tổn thương ty thể mức độ khác nhau. Đã có các báo cáo về rối loạn chức năng ty thể ở trẻ sơ sinh bị phơi nhiễm ở tử cung và/hoặc sau khi sinh đối với các chất tương tự nucleoside. Các tác dụng ngoại ý chính được báo cáo là các rối loạn huyết học (thiếu máu, giảm bạch cầu trung tính), rối loạn chuyển hóa (tăng lympho máu). Một số rối loạn về thần kinh xuất hiện muộn được báo cáo (tăng trương lực, co giật, hành vi bất thường). Các rối loạn thần kinh có thể là thoáng qua hoặc vĩnh viễn. Bất cứ trẻ em nào bị phơi nhiễm trong tử cung với các chất tương tự nucleoside và nucleotide, cần được theo dõi lâm sàng và trong phòng thí nghiệm và cần được điều tra đầy đủ về rối loạn chức năng ty thể trong trường hợp có các dấu hiệu hoặc triệu chứng liên quan. Trong khi điều trị khởi đầu và duy trì, bệnh nhân cần được theo dõi thường xuyên bởi một bác sĩ có kinh nghiệm trong việc điều trị bệnh viêm gan B mạn tính.
- Khi ngừng sử dụng Zeffix hoặc thuốc có biểu hiện mất hiệu quả, một số bệnh nhân có thể có dấu hiệu viêm gan tái phát trên lâm sàng hoặc xét nghiệm. Đợt cấp của viêm gan chủ yếu được phát hiện qua việc tăng ALT trong huyết thanh và thêm vào đó là sự tái xuất hiện của HBV DNA. Xem Bảng 2 trong phần Nghiên cứu lâm sàng để có thêm thông tin về tần suất xuất hiện của hiện tượng tăng ALT sau điều trị. Phần lớn các biến cố này dường như chỉ giới hạn trên một số cá thể. Rất hiếm tử vong và chưa rõ mối liên hệ nhân quả với việc ngừng điều trị bằng Zeffix. Nếu ngừng Zeffix, bệnh nhân nên được theo dõi định kỳ cả trên lâm sàng và qua đánh giá xét nghiệm huyết thanh về chức năng gan (nồng độ ALT và bilirubin) trong ít nhất 4 tháng để phát hiện bằng chứng viêm gan tái phát, sau đó bệnh nhân nên được theo dõi như chỉ định trên lâm sàng. Đối với những bệnh nhân phát triển dấu hiệu viêm gan tái phát sau điều trị, không có đủ số liệu về lợi ích của việc tái điều trị với Zeffix.
- Ở những bệnh nhân suy thận từ vừa tới nặng, nồng độ lamivudin trong huyết thanh (AUC) tăng do thanh thải qua thận giảm, do đó nên giảm liều ở những bệnh nhân có độ thanh thải creatinine từ 30ml/phút đến 50ml/phút (xem phần Liều lượng và Cách dùng).
- Những bệnh nhân ghép gan và những bệnh nhân mắc bệnh gan tiến triển có nguy cơ cao hơn từ sự sao chép virus hoạt động. Do chức năng gan ở những bệnh nhân này rất kém nên viêm gan tái phát khi ngừng dùng Zeffix hoặc khi thuốc mất hiệu quả trong thời gian điều trị có thể dẫn đến tình trạng mất bù nghiêm trọng và thậm chí dẫn đến tử vong. Những bệnh nhân này nên được theo dõi những thông số liên quan đến viêm gan B, chức năng gan, chức năng thận và sự đáp ứng với thuốc kháng virus trong thời gian điều trị. Những bệnh nhân ngừng điều trị vì bất kỳ lý do nào nên được theo dõi trong ít nhất 6 tháng sau khi ngừng thuốc. Những bệnh nhân có những dấu hiệu suy giảm chức năng gan trong khi hoặc sau khi điều trị nên được theo dõi thường xuyên một cách thích hợp.
- Số liệu về việc sử dụng Zeffix cho những bệnh nhân đang đồng thời trong liệu trình ức chế miễn dịch, bao gồm cả hóa trị ung thư còn hạn chế.
- Đã xác định được các phân nhóm virus HBV (HBV biến thể YMDD) giảm nhạy cảm với Zeffix khi điều trị kéo dài (xem phần Các nghiên cứu lâm sàng). Trong một số ít các trường hợp, biến thể này có thể dẫn đến viêm gan tái phát.
- Để điều trị bệnh nhân đồng nhiễm HIV và hiện đang điều trị hoặc có kế hoạch điều trị bằng phác đồ kháng retrovirus bao gồm lamivudin, nên duy trì liều lamivudin thông thường được sử dụng cho điều trị nhiễm HIV.
- Thông tin về sự lây truyền virus viêm gan B từ mẹ sang con ở những bệnh nhân mang thai được điều trị bằng Zeffix còn hạn chế. Cần tuân theo quy trình chuẩn được khuyến cáo để tiêm phòng viêm gan virus B cho nhũ nhi.
- Nên cho bệnh nhân biết rằng điều trị bằng Zeffix chưa được chứng minh là làm giảm nguy cơ lây truyền virus viêm gan B cho người khác do đó vẫn phải áp dụng những biện pháp thận trọng thích hợp.
Lái xe
Các bệnh nhân nên được thông báo rằng sự khó chịu, mệt mỏi đã được báo cáo trong quá trình điều trị với lamivudin. Tình trạng lâm sàng của bệnh nhân và dữ liệu tác dụng không mong muốn của lamivudin nên được cân nhắc đối với khả năng lái xe hay vận hành máy móc của bệnh nhân.
Thai kỳ và cho con bú:
Khả năng sinh sản
Những nghiên cứu về khả năng sinh sản ở động vật đã cho thấy thuốc không ảnh hưởng đến khả năng sinh sản ở giống đực và giống cái.
Thai kỳ
- Lamivudin đã được đánh giá bởi APR (Antiretroviral Pregnancy Registry) với hơn 11.000 phụ nữ đang trong thai kỳ và sau khi sinh. Dưới 1% những bệnh nhân này đã từng được điều trị HBV trong khi đó phần lớn đã được điều trị HIV với liều cao hơn và sử dụng đồng thời với các thuốc điều trị HIV khác. Dữ liệu trên người sẵn có từ APR không cho thấy sự gia tăng nguy cơ dị tật bẩm sinh nghiêm trọng khi dùng lamivudin so với tỷ lệ nền (xem mục Các nghiên cứu lâm sàng). Tuy nhiên, chưa có các thử nghiệm đầy đủ và được kiểm soát chặt chẽ ở phụ nữ có thai và tính an toàn của lamivudin trên phụ nữ có thai vẫn chưa được thiết lập.
- Những nghiên cứu trên người đã khẳng định Zeffix qua được rau thai. Nồng độ lamivudin trong huyết thanh của trẻ mới sinh là tương tự nồng độ trong huyết thanh của mẹ và trong dây rốn vào lúc sinh.
- Những nghiên cứu về khả năng sinh sản trên động vật không cho thấy bằng chứng gây quái thai. Zeffix gây tăng nhẹ hiện tượng mất phôi sớm khi sử dụng cho thỏ đang mang thai với mức độ phơi nhiễm tương tự mức độ đạt được ở người. Tuy nhiên, không có bằng chứng mất phôi ở chuột lớn với mức độ phơi nhiễm bằng khoảng 60 lần so với mức phơi nhiễm trên lâm sàng (dựa trên Cmax).
- Chỉ cân nhắc việc sử dụng thuốc trong thai kỳ khi lợi ích thu được vượt trội nguy cơ. Mặc dù kết quả từ các nghiên cứu trên động vật không phải lúc nào cũng dự đoán được đáp ứng ở người, nhưng những phát hiện ở thỏ gợi ý nguy cơ có thể mất phôi sớm. Do vậy, không nên dùng Zeffix trong 3 tháng đầu của thời kỳ mang thai.
- Đối với bệnh nhân đang điều trị bằng Zeffix mà có thai thì phải cân nhắc khả năng viêm gan tái phát khi ngừng Zeffix (xem Cảnh báo và Thận trọng).
Cho con bú
- Sau khi uống lặp lại lamivudin 150mg hay 300mg, 2 lần mỗi ngày, lamivudin được bài tiết vào sữa mẹ (0,5 - 8,2mcg/ml) với nồng độ tương tự như trong huyết thanh. Trong những nghiên cứu khác, sau khi uống lặp lại lamivudin 150mg, 2 lần mỗi ngày, tỉ lệ thuốc trong huyết tương và trong sữa mẹ là khoảng 0,6 - 3,3. Trung vị nồng độ lamivudin trong huyết thanh trẻ sơ sinh là khoảng 18 - 28ng/ml và không phát hiện thấy ở một trong những nghiên cứu này (độ nhạy định lượng là 7ng/ml). Chưa biết liên quan lâm sàng của những phát hiện này.
- Số liệu thu được từ các nghiên cứu trên động vật trong đó chuột sơ sinh nhận được Zeffix với nồng độ cao hơn nhiều từ sữa chuột mẹ gợi ý rằng nồng độ lamivudin trong sữa người mẹ khó có thể gây độc cho trẻ bú mẹ.
- Chỉ nên sử dụng Zeffix cho phụ nữ đang cho con bú nếu lợi ích mong đợi vượt nguy cơ có thể xảy ra đối với trẻ bú mẹ. Cần quyết định ngưng cho trẻ bú mẹ hoặc dừng/tránh liệu pháp Zeffix, có cân nhắc đến lợi ích của việc cho trẻ bú mẹ và lợi ích điều trị cho người mẹ.
Tương tác thuốc (Những lưu ý khi dùng chung thuốc với thực phẩm hoặc thuốc khác)
- Khả năng tương tác chuyển hóa thấp do thuốc chuyển hóa và liên kết với protein huyết tương hạn chế và hầu như thải trừ hoàn toàn qua thận dưới dạng không đổi.
- Zeffix được thải trừ chủ yếu theo cơ chế bài tiết cation hữu cơ chủ động. Nên xem xét khả năng tương tác với thuốc khác khi dùng đồng thời, nhất là khi con đường thải trừ chính của những thuốc này là bài tiết chủ động qua thận thông qua hệ thống vận chuyển cation hữu cơ, như trimethoprim. Những thuốc khác (như ranitidin, cimetidin) chỉ thải trừ một phần qua cơ chế này và cho thấy không tương tác với Zeffix.
- Những thuốc thải trừ chủ yếu qua con đường hoạt hóa anion hữu cơ hoặc qua lọc cầu thận ít có khả năng có những tương tác có ý nghĩa lâm sàng với Zeffix.
Các tương tác liên quan tới lamivudine
- Trimethoprim/sulphamethoxazol: Khi dùng trimethoprim/sulphamethoxazol 160mg/800mg làm tăng mức độ tiếp xúc toàn thân của Zeffix lên khoảng 40%. Zeffix không ảnh hưởng tới dược động học của trimethoprim hoặc sulphamethoxazol. Tuy nhiên, trừ khi bệnh nhân bị suy thận, không cần điều chỉnh liều Zeffix.
- Zidovudin: Đã quan sát thấy có sự tăng vừa phải Cmax của zidovudin (28%) khi dùng cùng với Zeffix, tuy nhiên diện tích dưới đường cong nồng độ thời gian (AUC) thay đổi không đáng kể. Zidovudin không ảnh hưởng tới dược động học của Zeffix (xem Dược động học).
- Emtricitabin: Zeffix có thể ức chế sự phosphoryl hóa nội bào của emtricitabin khi sử dụng đồng thời hai thuốc này. Không khuyến cáo dùng Zeffix kết hợp với emtricitabin.
- Sorbitol: Sự phối hợp của dung dịch sorbitol (3,2g, 10,2g, 13,4g) với liều đơn 300mg dung dịch uống Lamivudine dẫn đến giảm liều phụ thuộc trong phơi nhiễm Lamivudine (AUC) 14%, 32% và 36%, và nồng độ Cmax của Lamivudine 28%, 52% và 55% ở người lớn. Nếu có thể, tránh dùng Lamivudine với các thuốc có chứa sorbitol hoặc cân nhắc việc thường xuyên kiểm soát sự nhân lên của virus viêm gan B (HBV) khi không thể tránh khỏi việc dùng phối hợp lâu dài.
- Alpha-interferon: Zeffix không tương tác dược động học với alpha-interferon khi sử dụng đồng thời. Không thấy các tương tác gây tác dụng phụ đáng kể về mặt lâm sàng ở bệnh nhân dùng Zeffix đồng thời với những thuốc ức chế miễn dịch thông thường (như cyclosporin A). Tuy nhiên, các nghiên cứu chính thức về tương tác thuốc chưa được tiến hành.
Bảo quản: Bảo quản dưới 30°C
Đóng gói: Hộp 2 vỉ x 14 viên
Thương hiệu: GSK
Nơi sản xuất: GlaxoSmithKline Pharmaceuticals S.A. (Ba Lan)
Mọi thông tin trên đây chỉ mang tính chất tham khảo. Việc sử dụng thuốc phải tuân theo hướng dẫn của bác sĩ, dược sĩ.
Vui lòng đọc kĩ thông tin chi tiết ở tờ rơi bên trong hộp sản phẩm.